Giỏ hàng

Bài vè lở làng Bát Tràng

Tác giả của bài thơ này là cụ Cửu Cung. Cụ sáng tác bài thơ khi xảy ra vụ lở đất tại làng Bát Tràng năm 1942. Vào năm đó, vụ lở đất là làm lở cây đa cổ thụ và tam quan chùa Kim Trúc (ngôi chùa chính của làng Bát Tràng khi xưa còn nằm trên cửa sông Bắc Hưng Hải hiện nay)

 Bài vè  BÁT TRÀNG NĂM NHÂM NGỌ (1942)

cau doi trong dinh lang bat trang
 Làng Bát Tràng là làng văn hiến,
Tự xưa nay nổi tiếng xa gần
Các quan văn võ triều thần
Quận công, Tiến sỹ, Cử nhân, Tú tài(1)
Bậc hào phú bao người xiết kể(2)
Cảnh phong lưu hồ dễ kém ai
Đội ơn thần thánh phật trời
Phù hộ con cháu đời đời hiển vinh
Trước cửa đình bên kia Ngũ Nhạc(3)
Sau Long Đàm(4) dòng nước chảy quanh
Mấy hay nhân kiệt địa linh
Đền đài, miếu mạo, chùa đình nguy nga
Năm Nhâm Ngọ(5) xảy ra biến cố
Cuộc tang thương ai có ngờ đâu
Tháng hai hăm bẩy đêm thâu
Dưới dòng sông Nhị(6) nước hầu cạn khan
Bỗng tự dưng tam quan lở trước
Các thuyền bè xuôi ngược cho mau
Cây đa lại lở xuống sau
Dưới thuyền trên bến ngóng đầu ra coi
Sáng ngày mai hẳn hoi trông thấy
Các trẻ già ai nấy thương tâm
Cầu trời khấn phật lầm rầm
Hai hàng nước mắt đầm đầm chảy ra
Đành báo quan nha về khám xét
Nếu không mau lở hết chùa đền
Quan về quan mới phê cho
Rước đi nơi khác tự do quyền hành
Còn long đình, ngai vàng với kiệu
Các quan viên hai miếu phù trì
Trống, chiêng, nhã nhạn bản ty
Các thầy loan giá rước đi lên đình
Trông hai miếu ra tình muốn lở
Sức dân làng kíp dỡ ngay đi
Bắc thang lên mái một khi
Kẻ thì rút ngói người thì cậy rui
Các cột gạch, tường vôi dỡ hết
Cảnh tiêu điều không biết về đâu
Trẻ già lớn bé nhìn nhau
Giọt ngắn giọt dài lắc đầu thở than
Nay Hà bá sao nên cơ hội
Nào dân tôi có tội tình gì
Van ông ông bớt lở đi...


Tác giả của bài thơ này là cụ Cửu Cung. Cụ sáng tác bài thơ khi xảy ra vụ lở đất tại làng Bát Tràng năm 1942. Vào năm đó, vụ lở đất là làm lở cây đa cổ thụ và tam quan chùa Kim Trúc (ngôi chùa chính của làng Bát Tràng khi xưa còn nằm trên cửa sông Bắc Hưng Hải hiện nay). Bát Tràng xưa có 1 ngôi Đình, hai ngôi đền trong đó có một ngôi đền thờ Mẫu bản hương (Đền trên và dền dưới), 2 miếu và 3 ngôi chùa (Kim Trúc, Chùa Am, chùa Bảo Minh tức chùa Âm Hồn). Năm 1958, hưởng ứng lời kêu gọi của Chính Phủ dân làng Bát Tràng đã di dời chùa Kim Trúc về vị trí ngày nay để nhường đất xây dựng công trình Đại Thủy Nông Bắc Hưng Hải lớn nhất miền Bắc Xã hội Chủ nghĩa thời bấy giờ.

Chú thích:

(1) Thư tịch cổ và văn bia tại Văn miếu Hà Nội và Huế còn ghi lại 364 người đỗ đạt từ Tam Trường trở lên trong đó có 1 Trạng nguyên, 1 Quận công và 9 Tiến sĩ.

(2) Trước năm 1945, ở Bát Tràng còn truyền tụng nhau câu "Nhiều tiền cụ đồ Trạc, nhiều bạc cụ lái Loan, nhiều vàng cụ trùm Hiến".

(3) Đình Bát Tràng nhìn ra sông Hồng, xa xa là dãy núi Ba Vì, nơi phát xuất của đức thánh Tản Viên một trong Tứ bất tử của Việt Nam.

(4) Long Đàm chính là Đầm Long Nhỡn (Ao cống ngày nay), trước kia Long Nhỡn kéo dài tới cổng chùa Am và thông với sông Hồng. Mỗi khi làng Bát Tràng có người đỗ đạt thường cưỡi thuyền rồng Vua ban về Vinh quy bái tổ. Thời xưa, Long Nhỡn chính là ranh giới phân chia giữa làng Bát Tràng và làng Giang Cao.

(5) Nhâm Ngọ: năm 1942

(6) Sông Nhị: Nhị Hà, sông Hồng.

Tác phẩm được lưu giữ và đọc lại bởi bà Phạm Thị Ngói xóm 2 thôn Bát Tràng, Xã Bát Tràng, Gia Lâm, Hà Nộiđọc lại.

Sưu tầm : Hoangoh Diễn giải: Gia Thanh
Facebook Youtube Top